Từ những năm 2000, khi Việt Nam xóa bỏ được bại liệt nhờ chương trình tiêm chủng mở rộng, những trường hợp bị tật chân ngắn chân dài cũng giảm đi đáng kể. Tuy nhiên, các nguyên nhân do chấn thương sau tai nạn, viêm xương khớp vẫn khiến nhiều bệnh nhân mắc dị tật này. Đặc biệt nhu cầu kéo dài xương vì mục đích thẩm mỹ cũng tăng lên đáng kể.

1. Thế nào là kéo dài chân

Kéo dài chân là kéo dài nhưng không phải là phẫu thuật phức tạp. Kỹ thuật này mục đích ban đầu nhằm điều trị các bệnh lý chân ngắn chân dài, do di chứng thương tật từ chiến tranh, lao động, những trường hợp bị viêm xương hoặc do phải cắt u xương dẫn đến chân cao chân thấp, hoặc các bệnh nhân bị bệnh bại liệt…

Tuy nhiên, trước kia phẫu thật này có nhiều biến chứng, thời gian kéo dài do phải mổ nhiều lần.

2. Đặc điểm

Lý thuyết:

Muốn kéo dài bao nhiêu cũng được, tùy theo nhu cầu bệnh nhân. Song các bác sĩ sẽ tư vấn cho họ chiều dài hợp lý và cân xứng với cơ thể cũng như hạn chế thấp nhất các biến chứng.

Phương pháp thực hiện:

Trước đây, dùng phương pháp cắt xương, xuyên 8 đinh qua xương và lắp khung bên ngoài để căng dãn từ từ với tốc độ 1mm/ngày. Như vậy, nếu muốn kéo dài 7cm sẽ mất thời gian 70 ngày. Khi đã kéo dài đủ 7cm, còn phải mang khung chờ thêm khoảng 7 tháng tiếp theo để cho xương liền chắc, sau đó mới tháo bỏ khung, bệnh nhân phải đeo khung trong một thời gian dài tới 10 tháng, rất cồng kềnh, vướng víu trong sinh hoạt.

Hiện nay, nhờ áp dụng tiến bộ mới, trước khi cắt xương, các bác sĩ đặt 1 chiếc đinh trong ống tủy xương, và chỉ sử dụng 4 đinh nhỏ xuyên qua ở 2 đầu xương. Khi kéo dãn đủ chiều dài, khung sẽ được tháo bỏ. Đinh nằm trong ống tủy sẽ giữ vai trò cố định trong thời gian chờ xương can chắc. Như vậy bằng phương pháp mới này, thời gian đeo khung đã được rút ngắn, chỉ còn ¼ thời gian so với trước kia, việc tháo khung sớm tạo điều kiện cho bệnh nhân nhanh chóng trở lại sinh hoạt và công tác, đồng thời sẹo cũng nhỏ và ít đi rất nhiều.

3. Những đối tượng nào có thể kéo dài chân

Chỉ định kéo dài chân thường chỉ đối với những người có tầm vóc thấp, lùn (nữ dưới 1m50, nam dưới 1m60) hoặc người mắc các dị tật, thương tật. Kỹ thuật này không áp dụng cho trường hợp chân cao chân thấp chênh lệch không quá 3 cm. Với mức độ chênh lệch ít thì có thể điều chỉnh bằng độn thêm đế giày dép đơn giản và dễ dàng hơn.

Về độ tuổi thích hợp để thực hiện kéo dài chân, thì lứa tuổi từ 20-30 tuổi là tốt nhất, vì lúc đó chiều cao cơ thể đã hoàn thiện. Sau 35 tuổi, xương bắt đầu lão hóa nên không thuận lợi để phẫu thuật kéo dài.

4. Biến chứng sau kéo chân có hay không?

Phẫu thuật kéo dài chân không làm ảnh hưởng tới tuổi thọ của người thực hiện như nhiều người lầm tưởng. Tuy nhiên, sau khi kéo dài, các phần mềm (gân cơ, cơ, thần kinh, mạch máu, dây chằng) chưa đáp ứng kịp với tình huống mới.

Do đó cần phải tập phục hồi chức năng một thời gian, nhanh hay chậm tùy theo mỗi người và mức độ kéo dài. Khi cơ xương khớp đã ổn định, đã tập luyện tốt, chi được kéo dài hoàn toàn khỏe mạnh, bệnh nhân đi lại sinh hoạt chạy nhảy bình thường.

5. Sau quá trình mổ xương thay đổi thế nào

Sau mổ bệnh nhân được tiêm thuốc kháng sinh, thuốc giảm đau, giảm nề, gác chân cao trong 5 ngày và thay băng vết mổ cách ngày.

Sau 3-5 ngày, được tập vận động thụ động nhẹ nhàng khớp gối và khớp cổ chân, đeo giá kéo bàn chân khi nghỉ ngơi và khi ngủ để chống biến chứng co ngắn gót. 

Sau 7-10 ngày, bác sĩ tiến hành căng dãn khung và hướng dẫn cho bệnh nhân tự vận hành khung để căng dãn ổ cắt xương với tốc độ 1mm/ngày, chia đều cho 3 lần. Sau căng dãn 5 ngày, nếu ổ cắt xương đã được căng dãn tốt, người kéo dài chân được ra viện, điều trị ngoại trú thực hiện tự căng dãn theo hướng dẫn. Định kỳ hàng tháng, các bệnh nhân được khám lâm sàng và đánh giá diễn biến liền xương bằng chụp X-quang.

Trong thời gian căng dãn, bệnh nhân đã bắt đầu phải tập tỳ nén một phần trọng lượng cơ thể khi đứng hoặc đi bằng hai nạng trong khung tập đi. 

Khi căng dãn đủ chiều dài, bệnh nhân được nhập viện và được bắt 2 vít chốt ngoại vi của đinh nội tủy và tháo bỏ khung cố định ngoài. Thời gian nằm viện khoảng 3 đến 5 ngày.
Ra viện bệnh nhân tiếp tục tập luyện đi lại dưới sự trợ giúp của khung hoặc nạng và tỳ nén tăng dần và được tì nén hoàn toàn khi có can xương bắc cầu ở hai vỏ xương trên phim X-quang. Khám kiểm tra định kỳ 2 tháng/lần đến khi liền xương vững.